Trên thế giới, người ta xem tự động hóa là biểu tượng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 3 (CMCN 3), còn thông minh hóa là linh hồn của CMCN 4. Về cơ bản, chuyển đổi số (CĐS) là quá trình chuyển đổi từ phương thức sản xuất tự động hóa sang phương thức sản xuất thông minh hóa.
Việt Nam chưa hoàn thành CMCN 3 (tính theo cấp độ số hóa, đang ở nửa đầu của cuộc cách mạng này). Phương thức sản xuất của nước ta hiện nay là thủ công – bán tự động (thủ công là chính). Vì vậy, khi chuyển đổi số chúng ta cần có phương pháp và công cụ riêng chứ không thể sao chép của quốc tế.
Chuyển đổi số là cơ hội tuyệt vời cho tất cả các quốc gia dù có trình độ tự động hóa khác nhau, vì trong thời CĐS xuất hiện những công cụ mới dành cho tất cả mọi người mà trước đó không có. Vì vậy, không chỉ các quốc gia công nghiệp hùng mạnh mới có thể CĐS mà các quốc gia đang phát triển, thậm chí là chậm phát triển cũng có thể (và cần phải) CĐS.
Để nhận diện và nắm bắt những cơ hội này, chúng ta cùng phân biệt giữa tự động hóa và thông minh hóa.
1.Tự động hóa
Tự động hóa (song hành cùng các khái niệm tin học hóa, điện toán hóa, điện tử hóa trong CMCN 3) là việc ứng dụng CNTT vào các hoạt động của con người, hướng tới tự động hóa quy trình nghiệp vụ mà con người thực hiện. Trong doanh nghiệp, tự động hóa quản lý diễn ra trong bộ phận “Quản lý”, tự động hóa sản xuất diễn ra trong bộ phận “Sản xuất”.
Đặc trưng của tự động hóa quản lý là:
Việc con người thu thập dữ liệu là khiếm khuyết lớn nhất của quá trình tự động hóa vì con người không thu thập được đầy đủ dữ liệu, việc thu thập mang tính chủ quan nên dữ liệu thiếu chính xác và nhất là con người không thể thu thập được dữ liệu theo thời gian thực.
Do dữ liệu không đầy đủ và thiếu chính xác, kết quả xử lý cũng bị hạn chế. Đây là lý do vì sao ở Việt Nam, người quản lý chỉ tham khảo kết quả xử lý dữ liệu chứ không dựa hoàn toàn vào nó để ra quyết định.
Khi con người vẫn phải tự làm mọi việc hay được trợ giúp một phần bởi ứng dụng CNTT hay cơ chế tự động hóa cơ học (lập trình thế nào làm thế đó) thì năng suất lao động vẫn thấp. Đây là hạn chế lớn nhất của phương thức sản xuất tự động hóa.
Chú ý: Tự động hóa quy trình nghiệp vụ chủ yếu diễn ra trong không gian số (cyber), con người thực hiện gần như mọi chuyện trong không gian vật lý (physical).
Theo cách hiểu này, tất cả các ứng dụng CNTT kiểu CRM, ERP, BPMS, cổng điện tử, làm việc trực tuyến (online), thương mại điện tử,… đều là những sản phẩm của tự động hóa quy trình nghiệp vụ mà thế giới đã thực hiện từ 20 – 30 năm trước.
2.Thông minh hóa
Thông minh hóa là việc ứng dụng các công nghệ số vào các hoạt động của con người, hướng tới các quy trình nghiệp vụ được thực hiện tự động thay thế con người một cách thông minh.
Đặc trưng của thông minh hóa là:
Đây là yếu tố dẫn tới sự khác biệt hoàn toàn giữa tự động hóa với thông minh hóa. Chỉ khi sử dụng các IoT để thu thập dữ liệu thì mới có thể thu thập được dữ liệu một cách đầy đủ nhất, chính xác nhất và quan trọng hơn cả là có thể thu thập được dữ liệu theo thời gian thực (nghĩa là thu thập được dữ liệu ngay tại thời điểm diễn ra vụ việc).
Đây là yếu tố làm thay đổi hoàn toàn phương thức sản xuất của xã hội vì khả năng xử lý vụ việc ngay khi phát sinh dẫn tới một khái niệm hoàn toàn mới: kinh tế thời gian thực (nền kinh tế có thể giám sát mọi hoạt động theo thời gian thực).
Đây là yếu tố quyết định tăng năng suất lao động lên cao vượt trội so với quy trình hoạt động truyền thống vì có máy làm thay người và máy có thể điều khiển được các dòng vật lý theo thời gian thực.
Chú ý: Phương thức sản xuất thông minh hóa luôn tuân thủ nguyên tắc “Xử lý, tính toán trong không gian số – quyết định, điều khiển trong không gian vật lý”. Hệ thống hoạt động theo nguyên tắc này gọi là hệ thống vật lý – số (cyber – physical system viết tắt là CPS) cũng còn gọi là hệ thống tự động thông minh. Thông minh hóa là linh hồn CMCN 4.
Đối với những quốc gia đã hoàn thành CMCN 3, chuyển đổi số là quá trình chuyển đổi từ phương thức sản xuất tự động hóa sang phương thức sản xuất thông minh hóa. Đối với Việt Nam (mới hoàn thành một nửa CMCN 3), chuyển đổi số là quá trình chuyển đổi từ phương thức sản xuất thủ công – bán tự động hóa sang phương thức sản xuất thông minh hóa.
Nhận xét: Ở nước ta, chương trình đặt ra là chuyển đổi số (hướng tới phương thức sản xuất thông minh hóa) nhưng cả mục tiêu lẫn giải pháp thực hiện lại đang tập trung vào tự động hóa. Hàng ngàn cuộc hội thảo diễn ra xoay quanh những nội dung chính liên quan đến ERP, làm việc online, thương mại điện tử, LGSP,… tất cả đều là các sản phẩm tự động hóa. Việc thiếu vắng những công cụ và giải pháp thông minh hóa dẫn tới sự mờ nhạt của các mô hình sản xuất kinh doanh số (digitalization) – nội dung định hướng cho các doanh nghiệp CĐS.
Rút ra: Ở nước ta, muốn chuyển đổi số cần phải có phương pháp và công cụ cho phép thiết kế các CPS và áp dụng CPS vào tất cả các hoạt động KTXH của đất nước. CPS là công cụ để thiết kế các mô hình sản xuất mới hoạt động theo nguyên lý tự động thông minh. Để chế tạo các CSP cần có sự hợp sức của các chuyên gia CNTT và các chuyên gia Tự động hóa (Automation) bởi một bên (CNTT – rất đông đảo) có sức mạnh về xử lý dữ liệu trong không gian số, còn bên kia (TĐH – khá khiêm nhường) lại là bá chủ trong điều khiển các dòng vật lý. Phương tiện để thúc đầy liên kết hai lực lượng này với nhau là các chuẩn kiểu SCADA hay O.S for IoT, chúng đều có mặt ở Việt Nam, nhưng đáng tiếc là sự liên kết giữa hai nhóm này vẫn chưa hiện diện.
Thay lời kết
Tất cả các nỗ lực của Đảng và Chính phủ đều thể hiện sự quyết tâm mạnh mẽ về chuyển đổi số. Tuy nhiên, có chuyển đổi số sâu rộng được hay không lại phụ thuộc vào việc Việt Nam có tạo ra cho mình bộ công cụ CPS mang thương hiệu Việt Nam hay không. Chỉ khi nào chúng ta tự sáng tạo ra bộ công cụ CPS của mình thì CĐS mới thực sự bùng nổ, đến mức người nông dân cũng có thể sử dụng dễ dàng, còn nếu chọn công cụ CPS của quốc tế thì chúng chỉ có thể áp dụng ở một số tập đoàn lớn và luôn bị phụ thuộc vào công nghệ (dù vậy, CĐS vẫn thực sự diễn ra).
Những nỗ lực thúc đẩy ứng dụng CPM, ERP, BPMS, làm việc online, thương mại điện tử, LGSP,… giống như cuộc chạy marathon trong chặng cuối của CMCN 3. Mục đích của chúng ta không phải là hoàn tất CMCN 3 mà là nhanh chóng bắt kịp CMCN 4 bằng cách CĐS. Cơ hội để bắt kịp chuyến tàu lịch sử này trong thời gian ngắn đang thu hẹp dần, nhưng chưa mất hoàn toàn. Nếu quyết tâm, chúng ta vẫn chủ động nắm được nó trong vài năm tới, còn không, sẽ vuột mất.
Bắt đầu từ hôm nay, chủ thẻ thanh toán Visa của ACB, Sacombank, Shinhan Bank, TP Bank, Techcombank (áp dụng cho thẻ tín dụng), Vietcombank và VPBank và sẽ có thể thêm thẻ của mình vào Google Wallet.
Tech Awards là chương trình bình chọn thường niên từ năm 2012 của VnExpress dành cho các sản phẩm và thương hiệu công nghệ nổi bật trong năm tại thị trường Việt Nam.
Với lợi thế chi phí đầu tư rẻ và triển khai nhanh chóng cho doanh nghiệp phía người dùng thì dễ dàng chuyển khoản trong hầu hết các giao dịch, phương thức thanh toán bằng mã QR tại Việt Nam đang ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng.
VMware vừa công bố các sản phẩm mới trong danh mục giải pháp kết nối mạng và an ninh bảo mật không ngừng mở rộng nhằm trợ giúp khách hàng tối ưu mô hình vận hành đám mây.
TW Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam (VYEA), Hiệp hội Phần mềm và dịch vụ CNTT Việt Nam (VINASA) và Tập đoàn FPT vừa ký kết thỏa thuận hợp tác nhằm thúc đẩy chuyển đổi số trong các doanh nghiệp hội viên của VYEA, hướng tới phát triển bền vững và số hóa thành công. Hiện VYEA có khoảng 12.000 hội viên trải đều khắp 63 tỉnh, thành phố trên cả nước.
Huawei đã chính thức công bố hệ điều hành MineHarmony bước vào giai đoạn ứng dụng thương mại trên diện rộng sau một năm kể từ khi được thương mại hóa.
Theo khảo sát của Dell, tại Việt Nam, 94% (APJ – Khu vực châu Á – Thái Bình Dương và Nhật Bản: 90%) các lãnh đạo doanh nghiệp xem con người là tài sản quan trọng nhất
Cho tới gần cuối 2022, FUNiX hợp tác với hơn 100 doanh nghiệp IT ở đa dạng lĩnh vực như phần mềm, hệ thống thông tin, blockchain, automotive, trí tuệ nhân tạo,… giúp học viên được rút ngắn thời gian đào tạo, tập trung phát triển các kỹ năng cần thiết và gia tăng cơ hội việc làm.
MoMo chính thức đồng hành cùng Coffeerary trong dự án “One Book One Coffee – Đổi sách lấy tách cà phê”. Bên cạnh sách cũ, mọi người có thể quyên góp thông qua hình thức quét mã QR nhận tiền của dự án bằng MoMo.
Sau hơn 4 tháng làm việc, cuối cùng 7 thành viên ban cố vấn và hơn 20 kỹ sư thuộc ban tổ chức chương trình cũng đã hoàn thành 3 đề bài và bộ dữ liệu huấn luyện với sự tham gia đóng góp của hơn 1.000 người.